3. các kinh nghiệm cho Việt Nam trong tiến trình hội tụ kế toán quốc tế
Từ phân tích trên, có thể thấy tiến trình hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích cực đáp ứng xu thế toàn cầu hóa kinh tế nhưng công đoạn đó cũng đầy cam go và phức tạp. Trước tình hình đó, một quốc gia đang tăng trưởng như Việt Nam không thể đứng ngoài loại chảy hội nhập quốc tế. Song, Việt Nam bắt buộc buộc phải nhận định đúng đắn tình hình để có những lộ trình yêu thích, đáp ứng phát triển kinh tế.
có thể thấy, hệ thống kế toán Việt Nam chịu tác động bởi rộng rãi yếu tố tụ hội từ môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường văn hóa. Theo thời gian, mức độ chi phối, ảnh hưởng của các chi tiết đã dần hình thành hệ thống kế toán Việt Nam với bản sắc riêng. Xét ở môi trường kinh doanh, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, thị trường tài chính Việt Nam trong các năm mới đây mang các biến chuyển tích cực, đặc biệt là TTCK đã có các tiến triển nhất định. Mức độ lạm phát trong nền kinh tế được kiểm soát, ổn định ko ảnh hưởng đến biến động của nền kinh tế. Đối với môi trường pháp lý, Nhà nước giữ vai trò quyết định trong hệ thống kế toán quốc gia, cụ thể Luật kế toán được Quốc hội ban hành, những chế độ tài chính được ban hành bởi Thủ tướng chính phủ, hệ thống CMKT và những thông tư hướng dẫn được BTC ban hành. ngoài đó, hệ thống kế toán bị chi phối bởi những qui định của thuế. Trước đây lợi nhuận kế toán sắp giống lợi nhuận của thuế như các qui định trích lập khấu hao TSCĐ, doanh thu nội bộ… Tuy nhiên từ những năm 2001, các quan điểm đã dần mang những thay đổi, cụ thể các đạo luật đã giảm bớt mức độ chi phối cho hoạt động kế toán bằng việc cho phép trích lập những khoản dự phòng, hình thành những khoản thuế hoãn lại… Hơn nữa, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) mặc dù thời gian hình thành và hoạt động đã lâu từ những năm 1994, nhưng ko mang vai trò lập qui cũng như mức độ ảnh hưởng và chi phối còn hạn chế. Riêng về môi trường văn hóa, sự tác động của văn hóa tới hệ thống kế toán Việt Nam bây giờ vẫn chưa mang những nghiên cứu chính thống. Tuy nhiên về cơ bản, Việt Nam chịu ảnh hưởng rộng rãi theo văn hóa Á Đông, bản chất thận trọng được đề cao, nhấn mạnh đến sự tuân thủ các qui định, tránh các vấn đề sở hữu tính xét đoán.
Từ các khía cạnh trên, mang thể thấy hệ thống kế toán Việt Nam mang các đặc điểm cơ bản: hệ thống kế toán được qui định thống nhất từ chứng từ, sổ kế toán, tài khoản và các BCTC; hệ thống kế toán còn chịu ảnh hưởng của những qui định về thuế; hệ thống kế toán liên quan tới ghi nhận và đo lường uy tín tính tuân thủ thể hiện qua việc ghi nhận giá gốc đối sở hữu các tài sản, hạn chế các xét đoán theo giá thông minh và mức độ trình bày và công bố thông tin trên BCTC còn giảm thiểu, sở hữu tính bảo thủ. Như vậy, có thể thấy hệ thống kế toán Việt Nam do Nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối đến hệ thống kế toán, ko các thế kế toán còn chịu ảnh hưởng bởi các qui định của thuế.
Từ thực trạng xu hướng hội tụ kế toán quốc tế hài hòa các đặc điểm cơ bản trong hệ thống kế toán Việt Nam, cho thấy khó mang thể áp dụng hầu hết IAS/IFRS cho hệ thống kế toán Việt Nam. Hệ thống IAS/IFRS dường như phù hợp đối với các quốc gia vững mạnh nhưng chưa ưa thích trong điều kiện ngày nay của Việt Nam. do vậy, trong công đoạn đầu, bắt buộc tiếp cận theo xu thế hoàn hợp theo khu vực mà cụ thể là khu vực đối với các doanh nghiệp niêm yết. Đây là hướng đi mà phổ biến quốc gia trên thế giới áp dụng. Theo đấy, hệ thống CMKT Việt Nam sở hữu thể bao gồm hai phần, 1 phần dành cho những doanh nghiệp niêm yết, phần còn lại cho những công ty không niêm yết. Đối với các công ty niêm yết, CMKT được thực thi theo các IAS/IFRS. Riêng đối với các doanh nghiệp ko niêm yết áp dụng những CMKT Việt Nam hiện hành nhưng theo hướng giản lược những nội dung phức tạp trong chuẩn mực. Điều này thể hiện sự kết hợp, linh hoạt nhằm hạn chế những biến động nhưng chất lượng cho tiến trình tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét