Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

Việt Nam có 64 nền kinh tế

Đặt tên cho hiện trạng liên kết vùng hiện nay là "kỳ dị" vì "chỉ nằm cạnh nhau, ko ôm nhau, ko làm cho gì", Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên nhắc rằng ở Việt Nam, 63 tỉnh thành là 63 nền kinh tế, cộng sở hữu nền kinh tế ở Trung ương, tạo bắt buộc 64 nền kinh tế...

"Không có gì chết nhanh hơn bằng bí quyết tự hạ giá mình để thu hút đầu tư, để lập thành tích tăng trưởng bằng hầu hết giá, chứ không hề bằng tìm mọi cách tăng uy tín vững mạnh của mình lên", ông Thiên nhận định tại cuộc hội thảo quốc tế về liên kết vùng ở Việt Nam, ngày 3/4 gần đây.

Ông nói: "Đua nhau khiến cho khu công nghiệp, đua nhau khiến cho cảng biển, đua nhau lôi kéo FDI, tìm bí quyết gây cạnh tranh cho tỉnh bạn, "ngăn sông, cấm chợ" như cấm chuyển quặng ra khỏi tỉnh ta, cần tiêu thụ "bia tỉnh ta"... Đây là những hiện tượng hơi rộng rãi, gây ra các tổn thất lớn lớn ở cả tầm quốc gia".

Giống như ép duyên

"Muốn thực sự với liên kết vùng, phải cơ chế thế nào để tạo ra tiện lợi chung cho những địa phương?", Trưởng ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ đặt câu hỏi tại hội thảo.

Ông dẫn ra ví dụ về cơ chế lập dự toán ngân sách của những địa phương bây giờ, thường giao chỉ tiêu đạt mức tăng thu từ 5-8% so có năm trước. mang cơ chế như vậy, địa phương nào cũng phải chạy đua để hoàn thành dự toán, mạnh ai nấy chạy, và như vậy ko bao giờ mang liên kết vùng.

Tán thành nhận định của ông Huệ, Phó chủ tịch Hội đồng Kiến trúc Trần Trọng Hanh đề cập, "lợi ích thúc đẩy cho các địa phương tự nguyện liên kết, ko chỉ là tiện lợi kinh tế mà còn bắt buộc là tiện dụng toàn diện. Còn hiện nay, liên kết vùng cũng giống như câu chuyện ép duyên".

Nhận xét liên kết vùng chưa chuẩn ngay từ khái niệm phải trải qua đa dạng năm vẫn không tạo được sự liên kết, ông Hanh cho hay: "Hiện nay có 71 luật và pháp lệnh 73 nghị định và hàng nghìn những thông tư, quyết định liên quan tới quy hoạch cộng mấy vạn đề án quy hoạch, mang tầm giá ước tính lên đến hơn 2.800 tỷ đồng thời kỳ 2001 - 2010 và sắp 5.000 tỷ đồng thời kỳ 2011 - 2020, nhưng hệ thống quy hoạch hoàn toàn phân lập, sở hữu những đồ án chỉ sử dụng được 1%".

Và theo ông Hanh, kể là liên kết nhưng "anh nào" cũng chọn phương án để đột phá riêng cho mình, để lấy thành tích tăng trưởng, gây ra hệ lụy là những khoản nợ dành cho đời con cháu và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Phó chủ tịch Hội đồng Kiến trúc còn thấy rằng số lượng các vùng, đặc trưng là vùng kinh tế- xã hội và những vùng mang chức năng đặc trưng quá phổ biến. những tiêu chí phân vùng còn nặng về vững mạnh kinh tế bắt buộc thiếu tính tổng hợp.

các phương pháp phân vùng còn nặng về định tính, ước muốn và phụ thuộc vào ý chí chủ quan, liên kết vùng lỏng lẻo, thiếu khách quan, cấu trúc riêng không bền vững xét theo góc độ kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và phong thổ học.

các vùng động lực có mặt trên thị trường còn tùy tiện về phạm vi, ranh giới, quy mô... đặc thù, ông Hanh nhấn mạnh tới "hệ thống các vùng kinh tế - xã hội bất cập, nước nhỏ mà phân thành rộng rãi vùng, là quốc gia biển mà sở hữu tới hai vùng quay lưng lại biển".

Hai kiểu liên kết

Theo nghiên cứu của TS. Lê Viết Thái (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương), nền kinh tế Việt Nam đang tồn tại hai kiểu liên kết vùng, mang "cách chơi", có "luật chơi" còn chung chung, chưa rõ ràng, theo lối "tùy tiện" hoặc theo "phong trào, nặng tính hình thức".

Hình thức liên kết thứ 1 là liên kết giữa những chủ thể là các doanh nghiệp, tổ chức, gia đình và cá nhân.

các chủ thể này nằm trên địa bàn của những tỉnh/vùng khác nhau nhưng sở hữu mối liên kết mang nhau, và dạng liên kết này thường diễn ra một cách tự nhiên, mang tính khách quan và với tính thị trường trong quá trình đi lại tăng trưởng của xã hội.

Hình thức liên kết thiết bị hai là liên kết giữa các địa phương trong nội vùng và ngoại vùng. Hình thức liên kết này chủ yếu do nhu cầu của các cơ quan quản lý cấp địa phương có nhau (liên kết theo chiều ngang) và thường với tính hành chính tự nguyện.

Đây là hình thức liên kết mới và đang mang xu hướng ngày càng vững mạnh ở Việt Nam.

Trong khi đấy, các liên kết mang tính lâu dài, chiến lược hơn như lớn mạnh mạng lưới khu công nghiệp, mạng lưới giao thông, lôi kéo và quản lý đầu tư nói chung, đặc biệt là đầu tư FDI, giải quyết vấn đề ô nhiễm... vẫn chưa được chú trọng.

Thiếu động cơ liên kết giữa những địa phương trong tăng trưởng cơ sở hạ tầng chủ yếu do vẫn còn tồn tại tư tưởng "lợi ích cục bộ địa phương" khá mạnh, 1 số địa phương chưa thấy được tầm quan trọng của thuận tiện vùng, chưa thấy được tiện dụng trở nên thành viên của vùng, chưa hình thành "tài sản chung" của vùng để các địa phương trong vùng cộng phối hợp khai thác và quản lý. Vẫn còn tình trạng "xin cho và ban phát".

Về cơ chế liên kết dưới hình thức cần, đã mang quy định về một số nội dung phải liên kết giữa các bộ, ngành và các địa phương. Dù thế, hiện cơ chế liên kết, phối hợp chưa xác định rõ việc triển khai thực hiện những nội dung liên kết theo quy trình nào, phương pháp thức thực hiện ra sao. bên cạnh ấy, kỷ luật chấp hành quy định về phối hợp của 1 số cơ quan quản lý Nhà nước không cao.

Hiện trạng kỳ dị

TS. Dương Đình Giám, Hội kỹ thuật Kinh tế Việt Nam đề cập, trong hơn 20 năm mới đây, theo trào lưu phát triển công nghiệp, bất chấp những điều kiện cụ thể của mình, tất cả mỗi địa phương đều quy hoạch vài khu công nghiệp và một số cụm công nghiệp.

Trong tổng số 76.000 ha đất bị thu hồi để làm trên 280 khu công nghiệp trên cả nước, và trên 32.000 ha đất quy hoạch cho khoảng 900 cụm công nghiệp, sở hữu đa dạng khoảng trống đất mà nông dân đang canh tác hiệu quả.

Tuy nhiên, do khả năng lôi kéo đầu tư với hạn, cần dung tích lấp đầy của những khu công nghiệp hiện chỉ vào khoảng 43% (so mang không gian với thể cho thuê) và chỉ đạt 25,4% (so có không gian đất quy hoạch).

những nhà máy sản xuất có cộng tính năng xuất hiện ở hai địa phương tiếp giáp nhau, thậm chí được khiến cạnh nhau (thuộc hai địa phương khác nhau) nhưng quy mô đều nhỏ, thường xuyên xuất hiện trong những lĩnh vực cung cấp vật liệu xây dựng, luyện kim, chế biến nông sản... làm cho nảy sinh sự khan hiếm, cạnh tranh về nguyên liệu, lao động và quan trọng hơn, là do cùng mang quy mô nhỏ, bắt buộc hiệu quả kinh tế không cao...

TS. Bùi Tất Thắng, Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), phân tích, vì nhiều lý do về thể chế, cho tới nay, những liên kết vùng theo chiều dọc (Trung ương và địa phương) vẫn là loại liên kết chủ yếu, thậm chí trong một số ví như còn lấn át những loại liên kết ngang. Tính vùng trong quan hệ liên kết dọc chưa được tính đến 1 bí quyết thỏa đáng.

Bằng chứng là việc chạy đua quyết liệt trong việc xây dựng những dự án các mẫu trên địa bàn các tỉnh mà từ lâu, cả trên những phương tiện thông tin đại chúng lẫn các diễn đàn chính thức, chúng được xem như những "phong trào", các "hội chứng" về nhà máy rượu bia, xi măng, thủy điện, cảng biển, sân bay, khai thác khoáng sản, khu đô thị..., tạo thành phổ biến "nền kinh tế" trong 1 nền kinh tế quốc gia.

Ông Thắng còn kể tới tình trạng mới đây xuất hiện hiện tượng các tỉnh thành gia tăng hoạt động xúc tiến đầu tư 1 bí quyết riêng rẽ, tuy thể hiện được tinh thần năng động, tích cực; nhưng ở góc độ của những nhà đầu tư thì lại thấy 1 đối tác thiếu tính tổ chức và thống nhất về đường hướng, chính sách và thông tin. Hậu quả là đôi lúc lợi bất cập hại.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More