2. Thách thức hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn
Hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực tới thực tiễn đầy thử thách, vẫn còn một khoảng cách nhất định để đạt được mục tiêu chung nhằm khiến cho chuẩn mực quốc tế đảm bảo cao. công đoạn ấy là bài toán phức tạp và nan giải bởi chúng xuất phát từ đa dạng nguyên do khác nhau về môi trường buôn bán, pháp lý và văn hóa trong mỗi quốc gia. vì vậy, xu thế hội tụ kế toán của một số quốc gia có thể thống nhất trong chuẩn mực nhưng chưa hoàn toàn nhất quán trong thực tế.
2.1. Liên minh châu Âu
Từ các năm 1995, Liên minh châu Âu (EU) đã bắt đầu sở hữu chiến lược hội nhập kế toán. EU đã áp dụng CMKT quốc tế được IASC ban hành có mục đích thiết lập chuẩn mực được chấp nhận bởi thị trường vốn toàn cầu. Tháng 6.2000 EU đã nên những doanh nghiệp niêm yết lập BCTC hợp nhất theo IAS/IFRS nhưng từng IAS/IFRS phải được xác nhận và thông qua luật tổ chức EU theo qui trình tổ chức riêng biệt. bên cạnh ra, tháng 3.2011, Tổ chức tư vấn BCTC của EU công bố khía cạnh tiến trình hội tụ với IASB về các nội dung liên quan tới công cụ tài chính, thuê tài chính, điều kiện ghi nhận doanh thu và hợp đồng bảo hiểm. đến 11.2011, Tổ chức này đang chờ thông qua những IFRS 1, IFRS 9, IFRS 10, IFRS 11, IFRS 12, IFRS 13 và đang chờ chỉnh sửa IAS1, IAS 12, IAS 19, IAS 21, IAS 28 cũng như điều chỉnh IFRIC 20.
Như vậy với thể thấy, về nguyên tắc chung EU áp dụng hoàn toàn sở hữu IAS/IFRS tuy nhiên việc EU thông qua từng IAS/IFRS tạo buộc phải hệ thống chưa thật sự đồng bộ so với IAS/IFRS bởi còn một số IAS/IFRS và những hướng dẫn chưa được thông qua. vì thế tính thống nhất trong hệ thống chuẩn mực chưa hoàn chỉnh. bởi thế, CMKT của các quốc gia EU cũng khó được nhất quán và điều này dẫn tới việc áp dụng các nguyên tắc, qui định kế toán vào thực tế của những công ty sẽ tạo ra các khác biệt nhất định.
Để làm sáng tỏ những nội dung trên, trong báo cáo của EC về việc thực thi IAS/IFRS của EU được công bố tháng 10.2007, EC đã tiêu dùng mô hình mang 200 công ty niêm yết của 25 quốc gia trong EU của năm 2005 và 2006. Theo kết quả báo cáo, mặc dù các doanh nghiệp đều áp dụng IAS/IFRS hoặc IAS/IFRS-EU (IAS/IFRS được thông qua bởi EU) nhưng những công ty của những quốc gia mang các khác biệt nhất định, cụ thể: những BCTC của những công ty trình bày ko rõ ràng; thiếu công bố về chính sách kế toán hoặc sở hữu công bố nhưng ko phù hợp; những khác biệt trong chính sách kế toán của những công ty đối có ghi nhận doanh thu; phân chiếc tài sản tài chính, tài sản tài chính sẵn sàng để bán… Trên cơ sở đấy, để tiếp tục đánh giá mức độ áp dụng của các công ty trong các quốc gia EU theo thời gian, EC đã phân tích 270 BCTC các quốc gia công bố năm 2006 và 2007 trong EU được EC công bố tháng 12.2008. Kết quả cho thấy những khác biệt cơ bản vẫn tồn tại trong thực tế trên BCTC của các công ty. Qua tổng kết hai báo cáo của EC, nhìn chung mức độ áp dụng trong thực tế của các doanh nghiệp trong EU vẫn còn những khác biệt đáng nói. Điều đấy phản ánh thực trạng rằng mặc dù áp dụng IAS/IFRS trong cùng khu vực kinh tế EU nhưng mức độ có thể khác nhau ở cấp độ quốc gia và thực tế các công ty.
ko kể ra, để nhìn nhận 1 cách khách quan, một nghiên cứu độc lập của Erlend Kvaal và Christopher Nobe (2009) đã đánh giá sự khác biệt trong thực tế về chính sách kế toán của IAS/IFRS của các quốc gia. Nghiên cứu đã sử dụng những BCTC của các doanh nghiệp "blue chip" của 5 thị trường chứng khoán (TTCK) to nhất trong năm 2005 và 2006 sở hữu 5 quốc gia Úc, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Anh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng IAS/IFRS trong thực tế còn các khác biệt đối mang các quốc gia khác nhau. Như vậy, rõ ràng trong thực tế, những quốc gia được sử dụng trong nghiên cứu đã đi ngược lại mục tiêu chung là làm chuẩn mực toàn cầu uy tín cao. Hơn nữa, Stefano Cascino (2009), đã phân tích thực nghiệm về sự khác biệt trong thực tế kế toán của các công ty niêm yết Đức và Ý. Mô hình nghiên cứu tìm chiếc 354 doanh nghiệp áp dụng IAS/IFRS của Đức và Ý từ năm 1998 tới 2008. Nghiên cứu thực nghiệm đã đi tới kết luận rằng các công ty Đức, Ý áp dụng những nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP) quốc gia hơn là thực thi IAS/IFRS. Đồng thời, nghiên cứu đã minh chứng sự khác biệt trong thực tế ở mức độ quốc gia, khu vực và ngay cả đối có thực tế các doanh nghiệp.
sở hữu thể thấy, các quốc gia EU vẫn bảo lưu những quan điểm riêng trong hệ thống kế toán khu vực mặc dù EU rất tích cực tham gia quá trình xây dựng IAS/IFRS. Hội tụ kế toán quốc tế như hình thức của EU là một cách tiếp cận riêng của các quốc gia trong cộng khu vực. Mặc dù trên nguyên tắc chung EU áp dụng nguyên bản IAS/IFRS nhưng vấn đề ở chỗ EU không chấp nhận tất cả IAS/IFRS mà phê duyệt từng chuẩn mực để áp dụng. ko các thế, thực tế những công ty của những quốc gia trong EU vẫn mang các khác biệt đáng đề cập.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét