Ban kiểm soát (BKS) đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động quản trị tài chính của công ty, nhất là tại các công ty cổ phần. Chức năng quyền hạn của BKS được quy định trong Luật công ty. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy ở nhiều doanh nghiệp, BKS chưa thực hiện hầu hết chức năng quyền hạn của mình, từ đó chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng của đại cổ đông (ĐHĐCĐ). Bài viết dưới đây chỉ ra năm nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém của BKS trong những doanh nghiệp và đưa ra một số gợi ý
Ban kiểm soát (BKS) đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động quản trị tài chính của công ty, nhất là tại các công ty cổ phần. Chức năng quyền hạn của BKS được quy định trong Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy ở phổ biến doanh nghiệp, BKS chưa thực hiện toàn bộ chức năng quyền hạn của mình, từ đó chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng của đại cổ đông (ĐHĐCĐ). Bài viết dưới đây chỉ ra năm nguyên nhân chính dẫn tới sự yếu kém của BKS trong những doanh nghiệp và đưa ra một số gợi ý.
Nguyên nhân 1: Thể chế của BKS ko đủ mạnh
Đối với các công ty cổ phần, theo quy định tại Luật công ty 2005, BKS với quyền hạn vô cùng to. BKS do ĐHĐCĐ bầu ra để giám sát những hoạt động của hội đồng quản trị (HĐQT) và giám đốc hoặc tổng giám đốc điều hành. Trên thực tế, các cổ đông to mang cổ phần chi phối tại ĐHĐCĐ thường nắm giữ hoặc cử người đại diện nắm giữ những chức vụ cao nhất tại HĐQT. những người này số đông là những người sở hữu tiền (bản thân họ là cổ đông góp vốn) và quyền (do số lượng cổ phiếu mà họ nắm giữ). Trong lúc đấy, các thành viên của BKS về danh nghĩa là do ĐHĐCĐ bầu ra nhưng bản chất cũng là do các cổ đông mang cổ phần chi phối quyết định. bởi vậy, các thành viên của BKS cực kỳ khó với thể "kiểm soát" được những thành viên HĐQT vì ấy là các người có tác động siêu lớn tới việc bổ nhiệm họ.
Ở các tập đoàn kinh tế nhà nước, vai trò của BKS trong 1 chừng mực nào ấy còn mờ nhạt hơn cả những công ty cổ phần. BKS của các tập đoàn này do HĐQT có mặt trên thị trường, trưởng BKS là thành viên của HĐQT được HĐQT phân công nhiệm vụ. những thành viên của BKS do HĐQT lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm và cả BKS cũng hoạt động theo quy chế do HĐQT ban hành. không tính ra, thù lao của các thành viên BKS cũng do chính các doanh nghiệp chi trả, buộc phải tính độc lập của BKS bị ảnh hưởng phần lớn.
Nguyên nhân 2: Nhận thức của các bên liên quan còn kém
Quy định hiện tại không nêu rõ trách nhiệm mà BKS buộc phải gánh chịu nếu như không làm cho tròn vai trò của mình. Luật công ty chỉ đưa ra các trách nhiệm nếu các thành viên BKS vi phạm những vấn đề liên quan tới đạo đức nghề nghiệp. Chính do đó, lúc với vấn đề xảy ra đối có những công ty do HĐQT hoặc tổng giám đốc gây ra thì hầu hết những công ty, cổ đông không xem xét đến trách nhiệm của BKS.
mang vẻ như toàn bộ các doanh nghiệp ko xem trọng vai trò của BKS. Quan điểm của doanh nghiệp khi có mặt trên thị trường BKS là để tuân thủ pháp luật. Hoạt động của BKS phần lớn mang tính hình thức và chưa có thực chất. vì vậy công ty ko đầu tư, trang bị hầu hết cho BKS thực hiện phải chăng chức năng giám sát của họ.
Nguyên nhân 3: Thiếu nguồn nhân lực
1 nguyên nhân nữa giải thích lý do BKS ko khiến tròn chức năng của họ là do họ ko với đủ nguồn nhân lực. siêu ít thành viên BKS làm cho việc toàn thời gian, hầu hết là làm cho việc bán thời gian, kiêm nhiệm phổ biến chức vụ khác ở nhiều tổ chức, công ty khác hoặc ngay chính doanh nghiệp mà họ là thành viên BKS. Cá biệt với công ty với BKS chỉ gồm toàn những thành viên làm việc bán thời gian. những người này thậm chí ko quen biết nhau. Trên thực tế, hầu hết những BKS chỉ gặp nhau định kỳ hàng quí hoặc thậm chí là ít hơn. Số lần đi kiểm tra những hoạt động của công ty chỉ cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. mang số lượng người và phương pháp làm cho việc như vậy thì việc đáp ứng những bắt buộc đặt ra đối sở hữu BKS là đầy đủ ko thể.
một vấn đề khác cũng đáng quan tâm là kiến thức và kinh nghiệm của những thành viên BKS. Theo thông lệ quốc tế, để thực hiện công tác giám sát hoạt động của doanh nghiệp, thường những thành viên trong BKS cần hỗ trợ nhau để uy tín mang ít nhất bốn kỹ năng chính. đó là năng lực quản lý rủi ro, năng lực chuyên môn về kế toán kiểm toán, năng lực về hoạt động marketing cốt lõi của công ty và năng lực giám sát sự tuân thủ pháp luật. Thực tế siêu ít doanh nghiệp ở Việt Nam sở hữu một đội ngũ BKS hội đủ bốn yếu tố này.
Nguyên nhân 4: Thiếu bộ máy giúp việc
hiện tại, ngoài lĩnh vực ngân hàng, BKS ở các doanh nghiệp đều không sở hữu bộ máy giúp việc. trường hợp như trong lĩnh vực ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã mang quy định cụ thể về chức năng kiểm toán nội bộ độc lập trực thuộc BKS và báo cáo lên cho BKS thì trong những lĩnh vực khác, ko có 1 quy định cụ thể về 1 bộ máy giúp việc cho BKS. kết hợp với việc hầu hết BKS chỉ làm việc bán thời gian thì việc BKS không thể hoàn thành thấp chức năng của mình là 1 điều dễ hiểu.
Nguyên nhân 5: Thiếu công cụ, phương tiện khiến cho việc
bên cạnh việc thiếu bộ máy giúp việc, BKS còn thiếu công cụ thu thập thông tin dùng cho chức năng giám sát. Họ ko được thứ 1 hệ thống thông tin quản lý đặc biệt cho công việc giám sát. Thông thường BKS chỉ dựa vào những báo cáo định kỳ của doanh nghiệp và chỉ tiếp cận được các thông tin chung mà công ty cung cấp cho họ. Thậm chí với những thông tin BKS được nhận cho mục đích công việc giám sát công việc của họ là các thông tin mà 1 cổ đông thông thường cũng với được. bởi vậy, việc này ít đa dạng ảnh hưởng đến công việc của BKS.
Để BKS hoạt động hiệu quả
Ban kiểm soát đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối sở hữu hoạt động tài chính của công ty, bởi vậy nên có quy định rõ về thể chế của BKS để uy tín chức năng, quyền hạn và tính độc lập của BKS, ko chịu ảnh hưởng của HĐQT hay ban điều hành. Ở những quốc gia theo hệ thống quản trị Anh và Mỹ, ko tồn tại BKS mà chỉ tồn tại ủy ban kiểm toán trực thuộc HĐQT.
ko kể việc đề ra thể chế BKS 1 bí quyết rõ ràng, cũng bắt buộc đưa ra các chế tài về việc thực hiện hoặc không thực hiện các chức năng quyền hạn của BKS để từ đó chất lượng BKS thực hiện đúng và hiệu quả chức năng của họ.
ĐHĐCĐ và những bên mang liên quan phải thay đổi nhận thức, buộc phải coi BKS là một công cụ đắc lực giúp công ty kiểm soát rẻ hơn những hoạt động của mình. Trên cơ sở đấy, công ty cần chỉ định thành viên BKS là các người mang đủ năng lực và kinh nghiệm chuyên môn về việc giám sát tài chính, bao gồm những năng lực chủ yếu như quản lý rủi ro, năng lực chuyên môn về kế toán, kiểm toán, quản lý tuân thủ, am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ, có đủ khả năng thẩm định, đánh giá những báo cáo rà soát.
Để BKS hoạt động hiệu quả, ngoài các giải pháp trên doanh nghiệp cũng cần thiết kế 1 hệ thống thông tin đặc biệt cho BKS, xây dựng thương hiệu một bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập trực thuộc BKS để giúp ban thực hiện chức năng của mình. Bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập cần am hiểu hoạt động marketing cốt lõi của công ty từ đấy xác định ra những rủi ro với thể phát sinh, các kiểm soát buộc phải cần thiết lập để ngăn ngừa, hạn chế rủi ro, hiểu các yêu cầu, quy định công ty buộc phải bắt buộc tuân thủ theo quy định của pháp luật, có kinh nghiệm thực hiện những công việc rà soát, kiểm toán. hiện nay, đa phần những doanh nghiệp đều dùng hệ thống quản trị nguồn lực công ty (ERP) ghi nhận những nghiệp vụ tài chính, tiêu dùng ERP làm công cụ quản lý tự động cho 1 số những quy trình như quy trình mua/ bán, quản lý tài chính, ngân sách. vì thế, bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập cũng cần có kiến thức khoa học thông tin để có thể thực hiện công việc rà soát, kiểm toán số liệu tài chính 1 cách hiệu quả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét